Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án)

Câu 1 (0,5 điểm)

Xác định đề tài và thể thơ và cảm xúc, âm hưởng chủ đạo của bài thơ. (0.5 điểm)

Phương pháp giải:

Đọc kĩ bài thơ, chú ý đối tượng được nhắc đến Chú ý số dòng trong bài, số từ trong câu

Chú ý các tính từ được nhắc đến để suy ra âm hưởng chủ đạo của nhà thơ

Lời giải chi tiết:

- Đề tài: Quê hương

- Thể thơ: Tứ tuyệt

- Cảm xúc chủ đạo: Nỗi nhớ quê da diết; âm hưởng lắng đọng, buồn da diết.

Câu 2 (0,5 điểm)

Đối chiếu bản dịch thơ của câu thứ nhất với nguyên văn (thông qua các bản dịch nghĩa), từ đó xác định từ ngữ ở bản dịch thơ chưa sát nghĩa và phân tích hoàn cảnh và cảm xúc của nhân vật trữ tình. (0.5 điểm)

Phương pháp giải:

Đọc kĩ bản dịch thơ câu thứ nhất với nguyên văn

Lời giải chi tiết:

Dịch nghĩa: Trong tù bỗng nghe khúc nhạc nhớ quê hương. Dịch thơ: Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu.

→ Bản dịch thiếu nghĩa của “tư hương” – nhớ quê; bản dịch nghĩa và phiên âm

- Bản phiên âm, dịch nghĩa thể hiện rõ hoàn cảnh của nhân vật trữ tình: đang 1 ở trong ngục (mất tự do và xa quê), nghe tiếng sáo nhớ quê.

→ Nghe âm thanh tiếng sáo cảm nhận được nỗi lòng người thổi sáo đang nhớ quê

→ Nỗi lòng nhớ quê tác động mãnh liệt tới tâm hồn người đang bị giam trong ngục

→ Hai người như giao cảm, thấu hiểu nỗi lòng nhau qua tiếng sáo.

Câu 3 (1,0 điểm)

Bản dịch thơ ở câu thứ 2: Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu đã thể hiện trọn vẹn nội dung và cảm xúc ở bản gốc chưa? Hãy phân tích bản gốc (ngắt nhịp, thanh điệu) để thấy rõ sự tinh tế trong cảm nhận tiếng sáo của thi sĩ Hồ Chí Minh. (1.0 điểm)

Phương pháp giải:

Đọc kĩ bản dịch và bản gốc câu thứ 2

Nhận xét về nhịp thơ và phân tích nghĩa từng từ trong câu

Lời giải chi tiết:

- Bản gốc: Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu (Âm thanh trở nên thế lương, tình điệu trở nên sầu muộn).

- Bản dịch thơ (Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu) chưa chuyển tải trọn vẹn tình ý ở bản gốc.

+ Bản phiên âm, dịch nghĩa: Nhịp thơ cổ điển 4/3; với bốn thanh trắc “ngục, “hốt”, “thính”, “khúc” nghe réo rắt diễn tả tâm trạng nhớ quê hương một cách da diết.

+ Dịch được chữ “điệu” mà không dịch được chữ “thanh”, hai yếu tố quan trọng của âm nhạc để diễn tả cảm xúc.

docx 90 trang Thúy Bình 02/09/2025 140
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án)

Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án)
 Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
 DeThiVan.com Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
 ĐỀ SỐ 1
I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Học sinh đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi kế tiếp
 NẠN HỮU XUY ĐỊCH
 (Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh)
Ngục trung hốt thính tư hương khúc, 
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu. 
Thiên lí quan hà vô hạn cảm,
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.
Dịch nghĩa
Trong tù bỗng nghe khúc nhạc nhớ quê hương,
Âm thanh trở nên thê lương, tình điệu trở nên sầu muộn. 
Nước non xa cách nghìn trùng, cảm thương vô hạn,
Người chốn phòng khuê lại bước lên một tầng lầu. 
Dịch thơ – Nam Trân: Người bạn tù thổi sáo 
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu; 
Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi, 
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
 (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000)
 (baodaklak.vn) 
Câu 1. Xác định đề tài và thể thơ và cảm xúc, âm hưởng chủ đạo của bài thơ. (0.5 điểm)
Câu 2. Đối chiếu bản dịch thơ của câu thứ nhất với nguyên văn (thông qua các bản dịch nghĩa), từ đó xác 
định từ ngữ ở bản dịch thơ chưa sát nghĩa và phân tích hoàn cảnh và cảm xúc của nhân vật trữ tình. (0.5 
điểm)
Câu 3. Bản dịch thơ ở câu thứ 2: Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu đã thể hiện trọn vẹn nội dung và 
cảm xúc ở bản gốc chưa? Hãy phân tích bản gốc (ngắt nhịp, thanh điệu) để thấy rõ sự tinh tế trong cảm 
nhận tiếng sáo của thi sĩ Hồ Chí Minh. (1.0 điểm)
Câu 4. Không gian “xa cách nghìn trùng” và “người chốn phòng khuê bước lên một tầng lầu” có phải cảnh 
thực không? Vì sao có cảnh tượng ấy? Chúng đã gợi ra điều gì ở độc giả? (1.0 điểm)
Câu 5. Nhận xét bản dịch thơ (2 câu cuối) có sát với bản gốc không? Gắn bài thơ vào hoàn cảnh ra đời để 
phân tích sức gợi và khát vọng của nhân vật trữ tình trong bài thơ và từ đó cho biết em thích bản dịch thơ 
hay bản gốc hơn? (1.0 điểm)
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của chiến sĩ, thi sĩ Hồ Chí Minh và chỉ ra sự kết hợp giữa 
vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại của bài thơ. (Trả lời bằng đoạn văn 200 chữ) (2.0 điểm)
Câu 2. (4đ)
Viết văn bản nghị luận (600 chữ) so sánh, đánh giá để làm nổi bật nét tương đồng, khác biệt về cảm xúc, 
cách thể hiện cảm xúc ở 2 bài thơ tứ tuyệt Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch (trích từ Thơ Đường, tập 2, NXB Văn 
học, 1987) và Nạn hữu xuy địch của Hồ Chí Minh (ở phần Đọc hiểu)
 DeThiVan.com Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
 HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT
I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Câu 1 (0,5 điểm)
Xác định đề tài và thể thơ và cảm xúc, âm hưởng chủ đạo của bài thơ. (0.5 điểm)
Phương pháp giải:
Đọc kĩ bài thơ, chú ý đối tượng được nhắc đến Chú ý số dòng trong bài, số từ trong câu 
Chú ý các tính từ được nhắc đến để suy ra âm hưởng chủ đạo của nhà thơ
Lời giải chi tiết:
- Đề tài: Quê hương
- Thể thơ: Tứ tuyệt
- Cảm xúc chủ đạo: Nỗi nhớ quê da diết; âm hưởng lắng đọng, buồn da diết.
Câu 2 (0,5 điểm)
Đối chiếu bản dịch thơ của câu thứ nhất với nguyên văn (thông qua các bản dịch nghĩa), từ đó xác định 
từ ngữ ở bản dịch thơ chưa sát nghĩa và phân tích hoàn cảnh và cảm xúc của nhân vật trữ tình. (0.5 
điểm)
Phương pháp giải:
Đọc kĩ bản dịch thơ câu thứ nhất với nguyên văn
Lời giải chi tiết:
Dịch nghĩa: Trong tù bỗng nghe khúc nhạc nhớ quê hương. Dịch thơ: Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu.
→ Bản dịch thiếu nghĩa của “tư hương” – nhớ quê; bản dịch nghĩa và phiên âm
- Bản phiên âm, dịch nghĩa thể hiện rõ hoàn cảnh của nhân vật trữ tình: đang 1 ở trong ngục (mất tự do và 
xa quê), nghe tiếng sáo nhớ quê.
→ Nghe âm thanh tiếng sáo cảm nhận được nỗi lòng người thổi sáo đang nhớ quê
→ Nỗi lòng nhớ quê tác động mãnh liệt tới tâm hồn người đang bị giam trong ngục
→ Hai người như giao cảm, thấu hiểu nỗi lòng nhau qua tiếng sáo.
Câu 3 (1,0 điểm)
Bản dịch thơ ở câu thứ 2: Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu đã thể hiện trọn vẹn nội dung và cảm xúc 
ở bản gốc chưa? Hãy phân tích bản gốc (ngắt nhịp, thanh điệu) để thấy rõ sự tinh tế trong cảm nhận 
tiếng sáo của thi sĩ Hồ Chí Minh. (1.0 điểm)
Phương pháp giải:
Đọc kĩ bản dịch và bản gốc câu thứ 2
Nhận xét về nhịp thơ và phân tích nghĩa từng từ trong câu
Lời giải chi tiết:
- Bản gốc: Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu (Âm thanh trở nên thế lương, tình điệu trở nên sầu 
muộn).
- Bản dịch thơ (Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu) chưa chuyển tải trọn vẹn tình ý ở bản gốc.
+ Bản phiên âm, dịch nghĩa: Nhịp thơ cổ điển 4/3; với bốn thanh trắc “ngục, “hốt”, “thính”, “khúc” nghe 
réo rắt diễn tả tâm trạng nhớ quê hương một cách da diết.
+ Dịch được chữ “điệu” mà không dịch được chữ “thanh”, hai yếu tố quan trọng của âm nhạc để diễn tả 
cảm xúc.
 DeThiVan.com Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
 + “Thanh chuyển thê lương”, nghĩa là âm thanh trở nên lạnh lẽo như khúc
 nhạc chuyển gam; “Điệu chuyển sầu” nghĩa là điệu nhạc trở nên buồn bã. Bằng sự biến hoá của âm thanh, 
 nỗi nhớ quê hương trăn trở, day dứt không nguôi trong tiếng sáo của người bạn tù. Tiếng sáo gợi nỗi niềm 
 nhớ thương khắc khoải trong lòng người xa quê.
- Sự tinh tế trong cảm nhận tiếng sáo từ câu thơ đầu sáng câu thứ hai.
 + Câu thơ đầu là nỗi nhớ quê trong tiếng sáo.
 + Câu thứ hai thể hiện nỗi nhớ quê sâu lắng, tha thiết tới mức thê lương, sầu muộn trong thanh điệu của 
 tiếng sáo: Âm thanh trở nên thê lương, tình điệu trở nên sầu muộn.
 → Từ đồng cảm đến thấu hiểu sâu sắc nỗi lòng nhau –những người cùng cảnh ngộ mất tự do, xa quê, nhớ 
 quê da diết.
 Câu 4 (0,5 điểm)
 Không gian “xa cách nghìn trùng” và “người chốn phòng khuê bước lên một tầng lầu” có phải cảnh thực 
 không? Vì sao có cảnh tượng ấy? Chúng đã gợi ra điều gì ở độc giả? (0,5 điểm)
 Phương pháp giải:
 Liên hệ với thực tế để suy ra tính thực của không gian
 Đọc các câu thơ trước và giải thích vì sao có cảnh tượng ấy
 Lời giải chi tiết:
 - Không gian “xa cách nghìn trùng” và “người chốn phòng khuê bước lên một tầng lầu” không phải cảnh 
 thực.
 - Chính tiếng sáo, nỗi lòng nhớ quê của người bạn tù đã gợi ra cảnh tượng của những người đang nhớ nhau 
 trong ngàn trùng xa cách; chính sự thấu hiểu nỗi buồn vì nhớ quê nhà của người bạn mà thi sĩ tưởng tượng 
 ra cảnh của người vợ nhớ chồng. Họ đang hướng về nhau, người vợ nơi quê nhà nghe được tiếng sáo, nỗi 
 lòng nhớ thương của người chồng xa quê. Tiếng sáo là tiếng lòng, là cầu nối những người đang sống trong 
 thương nhớ với nhau, hiểu nhau, nhớ nhau nhưng phải cách xa nhau.
 Câu 5 (1 điểm)
 Nhận xét bản dịch thơ (2 câu cuối) có sát với bản gốc không? Gắn bài thơ vào hoàn cảnh ra đời để phân 
 tích sức gợi và khát vọng của nhân vật trữ tình trong bài thơ và từ đó cho biết em thích bản dịch thơ hay 
 bản gốc hơn? (1.0 điểm)
 Phương pháp giải:
 Đọc bản dịch thơ và bản gốc 2 câu cuối
 Gắn bài thơ vào hoàn cảnh ra đời (khi tác giả đang bị giam trong tù ngục) để phân tích sức gợi và khát 
 vọng của nhân vật trữ tình trong bài thơ
 Lời giải chi tiết:
 – Bản dịch thơ (2 câu cuối) vô cùng đặc sắc: hàm súc, giàu sức gợi liên tưởng:
 + “Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi”: Bảy chữ gợi ra không gian xa cách và nỗi buồn, niềm cảm thương 
 vô bờ đối với cảnh ngộ của bạn tù (hai vợ chồng nhớ thương nhau trong cách trở); Cụm từ “khôn xiết 
 nỗi” giàu sức gợi hiển thị toàn bộ lên bề nổi của ngôn từ như “cảm thương vô hạn”.
 + “Lên lầu ai đó ngóng trông nhau”: Vừa chuyển tải được ý ở bản gốc vừa gợi ra được tình, cảnh – hai 
 người trong xa cách đang hướng về nhau, nhớ nhau, mong ngóng nhau trở về.
 - Gắn bài thơ vào hoàn cảnh ra đời – khi tác giả đang bị giam trong tù ngục (Nhà tù của Tưởng Giới 
 DeThiVan.com Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
Thạch –Trung Quốc, 1942) để thấy sự đa nghĩa và sức gợi của bài thơ:
+ Cảnh ngộ “Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi” không chỉ của vợ chồng người bạn tù mà còn là cảnh 
ngộ của tác gia Hồ Chí Minh: xa nhà, xa nước muôn dặm, nhớ nước nhớ nhà khôn xiết, biết bao giờ mới 
được trở về, được tham gia vào sự nghiệp cứu nước đang dang dở...→ Khát vọng tự do cháy bỏng, mãnh 
liệt.
+ Cảnh “Lên lầu ai đó ngóng trông nhau” có thể hiểu Hồ Chí Minh và những đồng chí, cộng sự của mình 
đang mong ngóng tin nhau, đang chờ nhau trở về để cùng thực hiện sự nghiệp cứu nước ở giai đoạn quan 
trọng nhất.
→ Thể hiện kín đáo, sâu sắc tấm lòng yêu quê hương, đất nước của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn 
cảnh tù đày, gian khổ.
– Học sinh thể hiện sự lựa chọn theo sở thích cá nhân và lí giải đôi nét về sự lựa chọn đó.
II. VIẾT (6,0 điểm) 
Câu 1.
Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn của chiến sĩ, thi sĩ Hồ Chí Minh và chỉ ra sự kết hợp giữa vẻ 
đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại của bài thơ. (Trả lời bằng đoạn văn 200 chữ) (2.0 điểm)
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức và kĩ năng viết đoạn văn đã được học
Nhận xét về thể thơ, hình ảnh để thấy được nét cổ điển và sự chuyển biến, vận động của hình tượng thơ 
để thấy được tinh thần hiện đại
Nêu quan điểm, ý kiến của bản thân
Lời giải chi tiết:
- Cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn.
+ Nhạy cảm, thấu hiểu nỗi lòng, đồng cảm với cảnh ngộ của người bạn tù
+ Không than thở, không nói về cảnh ngộ của bản thân.
+ Thể hiện khát vọng tự do, tinh thần yêu nước.
- Kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại.
+ Cổ điển: thể thơ; hình ảnh, ngôn từ hàm xúc, giàu sức gợi,...
+ Tinh thần hiện đại: biến chuyển tinh tế (không tĩnh tại) trong cảm xúc, sự vận động của hình tượng thơ: 
nhớ quê – thê lương, sầu muộn – nhớ, hướng về nhau 
Câu 2.
Viết văn bản nghị luận (600 chữ) so sánh, đánh giá để làm nổi bật nét tương đồng, khác biệt về cảm xúc, 
cách thể hiện cảm xúc ở 2 bài thơ tứ tuyệt Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch (trích từ Thơ Đường, tập 2, NXB Văn 
học, 1987) và Nạn hữu xuy địch của Hồ Chí Minh (ở phần Đọc hiểu)
Phương pháp giải:
Xác định yêu cầu về hình thức và nội dung bài văn
Dựa vào kiến thức và kĩ năng đã học để thực hiện bài văn
Lời giải chi tiết:
 Viết văn bản nghị luận (600 chữ) so sánh, đánh giá để làm nổi bật nét tương đồng, khác biệt về cảm xúc, 
 cách thể hiện cảm xúc ở 2 bài thơ tứ tuyệt Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch (trích từ Thơ Đường, tập 2, NXB Văn 
 học, 1987) và Nạn hữu xuy địch của Hồ Chí Minh (ở phần Đọc hiểu)
 DeThiVan.com Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
 Phần chính Điểm Nội dung cụ thể
 Mở bài 0,5 - Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm cần so sánh, đánh giá.
 - Nêu luận đề: điểm tương đồng và thành công riêng của mỗi tác giả.
 Thân bài 3,0 * Nét tương đồng:
 - Về nội dung: Thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết (ánh trăng nỗi nhớ 
 có ngoại cảnh tác động: nghe tiếng sáo làm dậy lên nỗi nhớ
 - Về hình thức: bằng bài thơ tứ tuyệt hàm xúc, giàu sức gợi, chất hội 
 hoạ.
 * Nét khác biệt
 - Về nội dung – hoàn cảnh bộc lộ nỗi nhớ.
 + “Tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch: xa quê, nhìn trăng sáng mà nhớ cố hương, 
 trăng như trở thành biểu tượng cho quê hương
 + Nạn hữu xuy địch – Hồ Chí Minh: bị giam cầm, mất tự do, nghe 
 tiếng sáo người bạn tù mà cảm nhận được nỗi nhớ quê (nỗi nhớ có 
 cung bậc thê lương, sầu muộn.)
 - Cách thể hiện nỗi nhớ quê
 + “Tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch diễn tả trực tiếp nỗi nhớ của lòng mình 
 với quê hương
 + “Nạn hữu xuy địch” của Hồ Chí Minh: thể hiện gián tiếp qua nỗi 
 nhớ quê của người bạn tù
 Kết bài 0,5 - Khái quát giá trị, sự đóng góp của hai tác giả ở đề tài tư hương.
 – Sự tác động của hai tác phẩm vào cảm xúc nhận thức của cá nhân.
 DeThiVan.com Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
 ĐỀ SỐ 2
I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Học sinh đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi kế tiếp
 BƠ VƠ
 (Chương 2, Bỉ vỏ, Nguyên Hồng)
Tóm tắt tiểu thuyết “Bỉ vỏ”
Bính là cô gái nghèo làng Sòi. Vì nhẹ dạ, yêu một gã Tham đạc điền và bị hắn bỏ rơi giữa lúc bụng mang 
dạ chửa, cô bị cha mẹ hắt hủi, đay nghiến và đứa bé sinh ra phải đem bán đi vì sợ làng bắt vạ. Đau đớn, 
Bính trốn nhà đi Hải Phòng mong tìm được người tình nhưng lại rơi vào nhà chứa của mụ Tài sẽ cấu. 
Sống ê chề, cực nhục ở nơi bẩn thỉu hội hám, Bính ốm nặng.
Bính toan tự tử nhưng được Năm Sài Gòn, trùm lưu manh ở Hải Phòng, chuộc ra khỏi nhà chứa, chăm 
sóc hết lòng. Nhưng rồi Năm bị bắt. Thế là, bất đắc dĩ, Bính trở thành một “bỉ vỏ” – người đàn bà ăn cắp. 
Do một sự hiểu lầm và ghen tuông, Năm Sài Gòn đuổi Bính đi. Bính về Nam Định, gồng thuê gánh mướn 
kiếm ăn. Được tin bố mẹ ở quê gặp tai hoạ có thể bị tù, Bính không còn cách nào khác, đã phải nhận lời 
lấy một viên mật thám để có tiền gửi về cứu bố mẹ.
Năm Sài Gòn bị bắt bởi chính tay người chồng Bính. Không chút do dự, cô đã lẻn xuống trại giam, mở 
khoá cứu Năm rồi cùng y đi trốn. Kết cục bi thảm đã đến: một lần, Năm cướp được một đứa bé đeo vòng 
vàng trên tàu thuỷ. Bính hốt hoảng nhận ra đó chính là đứa con mà bao lâu Bính nhớ thương. Nhưng nó 
đã chết! Giữa lúc đó, đội xếp, mật thám ập vào, Năm và Bính đều bị bắt.
Đoạn trích sau là chương 2 của tác phẩm
(1) Hải Phòng. Lần này là lần đầu tiên Bính bước chân đến một tỉnh ồn ào đông đúc, khác hẳn chốn quê 
mùa vắng vẻ. Bính trốn đi, sau đêm ấy đến nay đã được bốn hôm. Bốn hôm dài quá chừng! [..]
Món tiền sáu hào chắt bóp ngót nửa năm trời đã dùng để trả tiền ăn tiền tàu từ Nam ra Phòng mất bốn hào. 
Còn hai hào thì vừa vặn ăn uống trong hai hôm nay. Bính hoang mang, cúi gằm mặt trong dải đường nhựa 
lấp lánh bóng trăng nhấc từng bước một.
Bính đi như thế không cần biết rồi sẽ đi tới đâu, miễn cho qua một đêm. Lúc này Bính bỗng hồi hộp, bối 
rối lạ thường. Những bụm cọ đen thẫm, ù ù lộng gió ở vườn hoa sông Lấp gợi trong trí Bính bao nhiêu 
hình dung quái gở. Bính tưởng con đường Bính đi tối tăm hoang vắng như cảnh một bãi tha ma. Những 
cành xoan xao động và những cành tre là ngọn bên những ngôi mộ chơ vơ mới đắp. Những tàu lá cọ to 
sùm suề giống những mớ tóc người điên hay thắt cổ.
Bính bật kêu khe khẽ:
- Biết làm sao đêm nay?!
Bính lại thấy đêm lạnh và dài lắm, một thân gái quê mùa đi bỡ ngỡ lang thang ở giữa cái tỉnh lắm kẻ lừa 
lọc, nham hiểm này, gặp những sự không may lạ thường. Nếu Bính không khéo gìn giữ, biết đâu đêm nay 
chẳng sẽ là cái đêm bắt đầu một cuộc đời khốn nạn nhơ nhuốc khác mà dù cực nhục chừng nào, Bính 
cũng phải cắn răng chịu, chứ không thể quay về quê nhà được. Bính thở dài. Mấy hôm nay tai tiếng chắc 
đã đồn đi khắp làng trên làng ngoài. Thế nào họ chẳng bảo lại vì mê giai, theo giai mà bỏ nhà đi. Cái 
tiếng theo giai đó là một sự nhơ nhuốc không sự nhơ nhuốc nào bằng. Vì người ta hiểu rằng: giai là một 
đứa xỏ xiên chỉ phá hoại trinh tiết người đàn bà, còn kẻ theo nó phải là một con đĩ thoã vô cùng.
Bính đã đi qua Sáu kho. Hôm nay các tàu chạy hết. Trên sông chỉ còn thấp thoáng mấy ánh lửa leo lét, 
 DeThiVan.com Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
chập chờn của dăm chiếc thuyền con đỗ đằng xa.
(2) Thốt nhiên Bính dừng bước, trong một phút Bính tưởng như là bến Sòi quê Bính. Bính ngẩng đầu bỡ 
ngỡ nhìn, lắng tai nghe: tiếng đọc kinh đâu đây nhẹ nhàng vang trước gió lạnh, réo rắt và thấm thía... Sự 
hồi tưởng ấy làm Bính cảm thấy rõ rệt bố mẹ mình là giả dối. Bính ghê sợ cho sự “nguyện ngắm” hàng 
ngày chỉ dùng che mắt thế gian. Phải, chỉ che mắt thế gian thôi! Nay đi xưng tội, mai đi chịu lễ, sáng sớm 
nào cũng có mặt ở nhà thờ, đêm nào cũng thức tới mười một, mười hai giờ để đọc kinh, hỏi để làm gì?
Thì cũng như trăm nghìn gia đình chỉ ngoan đạo bề ngoài, gia đình Bánh bao năm được người làng khen 
là êm ấm đáng làm mẫu mực nhưng thực chẳng có lấy một chút gì yên vui, thuận hoà, đạo đức bên trong. 
Cha mẹ Bính cắn rứt nhau luôn, vì thiếu thốn, chửi mắng hành hạ Bính luôn vì Bính không như ai giảo 
hoạt, tinh ranh trong sự cạnh tranh khách đi đò và buôn bán mua rẻ bán đắt tôm cá của các thuyền chài 
lưới quen thuộc. Hơn nữa, Bính không biết mưu tính các cách gian lận với những khách gửi hàng để lo 
cho mình có cái bộ cánh mà nhà không sao sắm sửa được vì ruộng đất cày cấy không có, ngoài mảnh 
vườn chỉ được cái rau ăn còn đều trông vào con đò thì phải sinh sống rất khôn ngoan xoay giờ đủ mặt. 
Những điều này đã làm Bính suy nghĩ và đau lòng.
Bính buồn bã lắc đầu rồi giơ tay làm “dấu” đoạn thầm thì cầu kinh. “Lạy Cha chúng tôi ở trên giời, xin 
Cha cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha nợ cho chúng tôi như chúng tôi đã tha kẻ có nợ chúng tôi... 
Thì Chúa sẽ ban ơn cho tôi giữ đạo nên ở đời này cho ngày sau được lên nước thiên đàng vui vẻ đời 
đời....
(3) Gió sông càng ù ù, sương càng mù mịt. Bính đọc hết năm chục kinh, làm “dấu”, đoạn khép chặt tà áo 
vào người rồi rảo bước. Chợt có tiếng người gọi:
- Cô kia đi đâu?
Bính không dám quay lại trả lời cứ lùi lũi đi nép vào rặng cây bên đường. Một chiếc xe tay đâm xô lại, 
chắn lấy lối đi, tiếp đến những tiếng cười ran:
- “Săn” kì được “mẻng” ấy cho tao.
Bính tránh hẳn sang bên kia, gằm mặt xuống xốc lại cái đẫy vải đeo sau lưng. Một người đàn ông vận quần 
áo lót kẻ sòng sọc rất chải chuốt và tóc bóng lộn, ngồi trên xe nom trõ mặt vào mặt Bính, Bính quay mặt ra 
chỗ khác. Người ấy kéo vạt áo Bính, ngọt ngào hỏi:
– Cô định tìm ai ở đây?
Bính hoảng hốt chực chạy. Nhưng chung quanh Bính năm chiếc xe đã vây kín, Bính kêu lên:
- Ô kìa!
Tên ngồi xe nhại lại, cười sặc sụa. Dáng điệu ngây thơ của Bính bảo rõ với bọn này rằng Bính là một gái 
quê mới ra tỉnh lần đầu và là một gái quê xinh đẹp hẳn hoi. Thật vậy, dưới ánh đèn điện, mắt Bính lấp 
lánh chớp luôn, đôi má mũm mĩm ửng hồng chúng trông ngon lành quá.
Một gã kéo xe nhưng tóc mai cũng xén nhọn và để dài như thằng ngồi xe, mặc hai gã khác ngồi trên xe 
ngăn lại không cho, rồi gã vận quần áo lót kẻ sòng sọc áo trắng là cổ bẻ và ngoài khoác áo tây vàng toan 
giằng lấy khăn vuông Bính, song hai gã khác ngồi trên xe ngăn lại không cho, rồi gã vận quần áo lót kẻ 
sòng sọc mượn cớ nhảy xuống bíu lấy vai Bính. Bính kêu thất thanh. Thừa cơ hai cái xe chạy đi đón 
khách dưới thuyền lên, Bính liền lẩn nhanh ra chỗ khác. Đám xe rãn cả, tản mỗi nơi một chiếc. Còn Bính, 
Bính đi ngược lên phố vì Bính nhận thấy nếu cứ lang thang, bơ vơ ở những chỗ đường vắng thì thế nào 
cũng còn bị chòng ghẹo.
 DeThiVan.com Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
Được một quãng có nhà cửa thì lại đến quãng vườn hoang. Những bụi cây là mù trước những ngọn đèn 
điện bóng mờ hiện ra trước mắt Bính làm trống ngực Bính lại đập thình thịnh. Chợt Bính lạnh toát cả 
người, quay đầu nhìn về đằng sau; một bóng người đương rảo gót như đuổi Bính. Bính đi nhanh hơn. 
Người theo sau cũng bước gấp, phút chốc hắn đi sát cạnh Bính và khẽ nói:
- Cô! Cô chậm bước chứ để tôi ngỏ câu chuyện này.
Nhời nói êm đềm khiến Bính bớt sợ, Bính đưa mắt nhìn thì đó là người ngồi trên xe ban nãy nhưng đã 
thay quần áo khác, Bính im lặng nhìn bộ y phục lạ lùng của hắn: cái áo dạ tím bó chẹt lấy lưng, hai ống 
quần lướt thướt như bằng lụa thì buông chùng quá gót, cái mũ dạ mới lạ làm sao, lóng lánh một chiếc tên 
mạ kém như dấu hiệu của lính. Bính chợt nhớ đến cái hạng công tử cũng kiểu ăn mặc như thế này những 
ngày hội đầu năm vùng Bính bọn chúng thường kéo về chớt nhả gái làng. Bính vội quay đi.
Hắn chẳng còn do dự, nắm ngay cánh tay Bính, cặp mắt sáng lên khác thường
- Cô đi đâu bây giờ? Đi một mình mà không buồn à?
Bính thót người lại hết sức giăng tay ra, nhưng hắn đã bá lấy cổ Bính, hôn vào má Bính đánh chụt một cái. 
Đường vắng vẻ quá, gió thổi lào xào trong những bụm cọ lù mù, vành trăng lại bị mây đen che đi.
Hắn bế xốc Bính lên, mặc Bính giãy giụa the thé van lơn, chạy vào trong vườn. Bính phải kêu thét lên 
nhưng gió thổi mạnh đánh bạt cả tiếng Bính đi.
Trong chớp mắt hắn dằn Bính xuống vệ cỏ...
Bỗng một đoàn xe đạp xăm xăm từ đằng xa tới, đèn xe kéo dài những vệt sáng rung động trên đường nhựa, 
có một ngọn soi chõ vào vườn như tìm tới.
Bính vội gào to:
- Các ông ơi! Cứu tôi với! Cứu tôi với!
Chẳng để Bính kêu thêm, hắn hốt hoảng buông Bính ra rồi chạy thẳng. Bính choáng váng mừng rỡ, nhặt 
mau cái đẫy vải lăn trên bãi cỏ chạy ra đường. Gió thổi mạnh. Mấy người ngồi xe đạp chẳng nghe thấy gì, 
song họ đều ngẩng đầu tò mò trông khi Bính trong vườn xô ra.
Bính cố giữ tự nhiên, lẳng lặng rảo bước một lát tới đầu phố. Trống ngực Bính vẫn đập rộn. Cảnh vật vẫn 
u ám! Bính len lét đến trước một cái hiên rộng, ngồi thở. Đồng hồ ở trong nhà vắng lên mười một tiếng.
(4) Đường sá càng vắng tanh, vắng ngắt. Bính rùng mình. Đêm nay đối với Bính mới dài và cực nhục làm 
sao! Còn ê chề, cay đắng hơn cả một năm lam lũ! Bính nép người bên góc tường, gục mặt vào bàn tay, tê 
tái những cảm xúc đau xót sôi nổi trong lòng. Bính càng mỏi mệt, ròng rã một ngày, Bính đi không mấy 
lúc nghỉ chân. Đã thế lại vừa phải chống cự với thằng đểu kia nên hai đầu gối Bính mỏi dừ, bụng cồn cào 
ngâm ngẩm đau. Gió đêm như ru, Bính chợp mặt thiu thiu ngủ.
Bỗng không biết từ đâu đưa tới tiếng trẻ con khóc oe oe giống tiếng mèo gào vang động cả trời khuya.
Bính mở choàng mắt, chợt nhớ đến đứa con thơ chưa đầy tháng, tại cha mẹ Bính cay nghiệt, tại cái tục lệ 
quái ác mà Bính phải xa nó, xa nó không biết bao giờ lại được ôm nó trong lòng. Bính vừa cất tiếng khóc 
rưng rức thì tiếng khóc kia nín bặt, Bính vụt nghĩ đến đứa bé kia khóc thế nào chả có người vỗ về ru cho 
bú, còn con Bính thân phận con nuôi con mày, giá đêm khát sữa, thì dù có được chiều chuộng mấy chăng 
nữa cũng khó mà được bú đêm. Ấy là không kể đến người nuôi dỗ mãi không nín thì thế nào chả phát nó 
năm bẩy chiếc phát cho bõ cái bực tức bị thức giấc.
 (Nguyên Hồng, Bỉ vỏ, NXB Văn học 1985)
(*) Tên văn bản do nhóm biên soạn đặt.
 DeThiVan.com Bộ 15 Đề thi Ngữ văn 12 Cánh Diều giữa Kì 2 năm học 2024-2025 (Có đáp án) - DeThiVan.com
*Nguyên Hồng (1918 – 1982), tên khai sinh Nguyễn Nguyên Hồng, là một nhà văn, nhà thơ. Ông được 
Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (1910). Vì có một tuổi thơ vô cùng 
bất hạnh, cay đắng nên ngay từ những tác phẩm đầu tay, Nguyên Hồng đã hướng ngòi bút về những 
người nghèo khó gần gũi mà ông yêu thương với một sự cảm thông sâu sắc, với tâm hồn của một người 
từng trải.
Câu 1. Đọc tóm tắt tiểu thuyết và văn bản Bơ vơ để xác định những đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại (0,5đ)
Câu 2. Tóm tắt nội dung văn bản Bơ vơ theo các đoạn đã đánh số và cho biết: Đoạn trích này có vị trí như 
thế nào đối với việc phản ánh số phận, cuộc đời của Tám Bính? (0,5đ)
Câu 3. Vì sao Bính phải bỏ nhà ra đi (Hãy gắn đoạn trích với phần tóm tắt để lí giải)? Lý do này có ý nghĩa 
như thế nào? (1đ)
Câu 4. Đọc đoạn số 1,3 và trả lời câu hỏi a,b (1đ)
a. Tình cảnh hiện tại của Tám Bính cơ cực như thế nào?
b. Cô ấy có nhận thức được cảnh ngộ của mình không? Điều này có ý nghĩa gì?
Câu 5. Điều gì khiến Tám Bính nhớ về quê hương và gia đình? Cô nhớ về điều gì nhiều nhất? Đoạn văn 
bản viết về nỗi nhớ quê của Bính được thuật kể từ điểm nhìn nào? Điểm nhìn đó có vai trò gì đối với văn 
bản đọc? (1đ)
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. Cảm nhận của em về nhân vật Tám Bính trong văn bản đọc hiểu Bơ vơ. Từ đó, nhận xét về nghệ 
thuật xây dựng nhân vật và xác định cảm hứng, phong cách sáng tác của văn bản đọc hiểu (Trả lời bằng 
đoạn văn 200 chữ) (2đ)
Câu 2. (4đ)
Em có đồng tình với việc bỏ nhà ra đi của Tám Bính không? Hiện tượng này có sảy ra với thanh niên hiện 
nay không? Em hãy biết bài luận (600 chữ) thể hiện chính kiến của mình về hiện tượng này
 DeThiVan.com

File đính kèm:

  • docxbo_15_de_thi_ngu_van_12_canh_dieu_giua_ki_2_nam_hoc_2024_202.docx